Thơ Mặc Giang
qua cái nh́n của các giới học giả
---o0o---
Về danh xưng với định hướng
tư tưởng thơ ca Mặc Giang
Hương Trí
Lâu nay, tôi cứ ngỡ Mặc Giang là tên nằm nôi của nhà thơ, sau nhờ
hỏi, mới rơ từ đâu. Th́ ra, dang xưng Mặc Giang có nhân duyên tiền
định đặc biệt với cốt truyện Câu chuyện ḍng sông. Được biết, thi
sĩ Mặc Giang khi mới 12-13 tuổi, cái lứa tuổi ham cút bắt u quạ,
thế nhưng sau đọc truyện này, với ư hướng cao thượng, tâm chí mạnh
mẽ độc lập, nên trong ư thức tuổi thơ mà đă xác định được vai tṛ
trách nhiệm của ḿnh trong cuộc sống. Một cách tràn đầy ư thức, dựa
vào tinh túy cốt truyện, nhà thơ đă đặt bút hiệu ḿnh là“Mặc Giang”,
nghĩa là ḍng sông trôi chảy trong lặng lẽ êm đềm, trầm tĩnh và sâu
lắng. Nay đă rơ, th́ thử mạo muội lạm bàn đôi điều cho thỏa dạ hậu
sanh.
Câu chuyện ḍng sông (Việt Nam có bản dịch của cố Ni Trưởng Trí Hải),
một trong những tác
phẩm văn học nghệ thuật của Hermann Hesse, ra đời vào những thập
niên đầu của thế kỉ 20, đă từng làm rung động cả thế giới văn đàn
thời bấy giờ, đă ảnh hưởng tác động mạnh mẽ người đọc bởi sựï thống
nhất giữa tính phổ quát, tính đặc thù của nội dung cốt truyện. Tuy
cả Tất Đạt, Thiện Hữu, và Vệ Sử đều là nhân vâït chính, nhưng nổi
bật và khiến người đọc suy nghĩ nhiều hơn cả vẫn là Tất Đạt. Thực
chất, ba h́nh ảnh ấy chỉ là một cuộc đời, một con người mà thôi. Do
đó, Câu chuyện ḍng sông được hiểu như là một cuộc độc thoại nội
tâm của tác giả.
Tất Đạt một thư sinh bà la môn, đă t́m chân lí bằng tu tập khổ hạnh,
và đă trải qua bao hạnh phúc khổ đau, thành công thất bại, vùi dập ê
chề, chán chường và tin yêu cuộc sống. Không một hạnh phúc trần gian
hay khổ đau nào mà chàng chưa từng trải nghiệm.
Người bạn chí t́nh, thường có mặt bên Tất Đạt như cái bóng, là Thiện
Hữu, người yêu Tất Đạt hơn ai hết, quan tâm chăm sóc từng diễn biến
cảm xúc của chàng, nhưng rồi Thiện Hữu cũng phải rời xa Tất Đạt để
gia nhập giáo đoàn của Đức Phật.
Sau khi trải qua tất cả khổ đau và hưởng thụ mọi dục lạc của đời
sống tầm thường, Tất Đạt cảm thấy một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm
ḷng ḿnh, bởi đă hoang phí đời ḿnh một cách vô nghĩa, rồi chàng
cảm nghe cơi ḷng hoang mang trống trải đến vô hạn. Cuối cùng, bỏ
lại sau lưng tất cả tiền tài, danh vọng, ái t́nh, và trở lại bên
ḍng sông, nơi mà ngày xưa thuyền gia Vệ Sử đưa chàng qua hồi trẻ và
sau khi (Tất Đạt) từ giă không muốn gia nhập giáo đoàn Đức Phật, rồi
đi đến một ư tưởng phiêu lưu cuối cùng là quyên sinh. Nhưng chính
tại bên ḍng sông, Tất Đạt đă t́m thấy được hạnh phúc chân chính.
Tất Đạt cảm nghe được từ trong cơi trần tục mà ḿnh đă trải qua một
cách mệt mỏi tiếng vọng của toàn giác. Cũng tại đây, Tất Đạt gặp lại
Thiện Hữu, một Sa môn đă từng không mệt mỏi đi t́m giác ngộ và theo
đuổi nó như một mục đích. Tất Đạt cảm thấy ḍng sông thơ mộng đẹp
hơn khi nào cả, và đă nảy sinh một t́nh yêu sâu đậm với con sông
đang ềm đềm xuôi chảy.
Rồi Tất Đạt học được nhiều thứ từ con sông. Chàng hiểu rằng,“bất cứ
ai hiểu được ḍng sông và những huyền bí của nó sẽ hiểu được nhiều
điều hơn nữa, nhiều điều huyền bí, tất cả mọi huyền bí ”. Khi Tất
Đạt kể cho Vệ Sử nghe về cuộc đời của ḿnh, Vệ Sử đă lắng nghe chăm
chú, rồi bảo,“chính ḍng sông đă dạy tôi cách nghe, anh cũng sẽ học
nơi đó. Ḍng sông biết mọi chuyện, người ta có thể học mọi chuyện từ
ḍng sông. Anh đă học với con sông rằng nên cố gắng lặn xuống t́m
kiếm những chiều sâu thẳm nhất”. Tại đây, Vệ Sử c̣n chỉ cho Tất Đạt
biết, trong ḍng sông chỉ có hiện tại, không có quá khứ và vị lai;
trong tiếng của ḍng sông, có tiếng của muôn loài. Tất Đạt tự quyết
định không ngủ nữa để ngồi lắng nghe ḍng sông, rồi nói, “ḍng sông
đă nói với tôi rất nhiều, nó đă cho tôi đầy những tư tưởng lớn lao,
những tư tưởng về sự Nhất thể”. Tất Đạt c̣n hiểu, khi tin tưởng
tuyệt đối vào ḍng sông, chính là lúc buông hết mọi giới hạn lí
thuyết sách vở.
Cuối cùng, khi nụ cười vụt sáng trên làn môi héo hắt của Tất Đạt,
th́ Thiện Hữu cảm nhận ra rằng, đó là “nụ cười của Nhất thể phảng
phất trên bao h́nh hài tuôn chảy……là nụ cười của sự trầm tĩnh sâu
xa, khôn ḍ…… nụ cười trí tuệ, nụ cười của muôn mặt Thế Tôn mà Tất
Đạt đă từng nh́n thấy, ḷng tràn đầy khâm phục. Thiện Hữu biết rơ nụ
cười kia chính là nụ cười của đấng Toàn Giác”
Theo chúng tôi, điều quan trọng nữa không thể không chú ư là, trong
cuộc trùng phùng này, người đầu tiên nh́n ra bạn cũ của ḿnh chính
là Tất Đạt, c̣n Thiện Hữu tuy ngồi canh cho Tất Đạt ngủ nhưng vẫn
không nhận ra người bạn xa cách lâu năm; khi Tất Đạt t́m đến con
sông ngày xưa, th́ thuyền gia Vệ Sử đă đứng sẵn ở đấy đợi chàng, chứ
không phải chàng đến rồi, sau đó Vệ Sử mới đến. Đó là triết lí sâu
xa về nguyên lí của tiến tŕnh chứng ngộ. Như khi Cao Tăng Đường
Huyền Trang (trong truyện - phim Tây Du kư ) đi đến bên con sông,
tiếp tục cuộc hành tŕnh sang đất Phật thỉnh kinh ---dụ cho nẻo về
Chân tâm, th́ thuyền gia với một chiếc thuyền trơ trọi, không một
bóng du khách, âm thầm ṿ vơ đứng đợi sẵn tự bao giờ.
Từ những nhận định của Tất Đạt cũng như của Vệ Sử về h́nh ảnh ḍng
sông đă nêu trên, cho chúng ta thấy, ḍng sông trong cốt truyện
chính là h́nh bóng ẩn dụ về chân tâm, hay đó là ḍng tâm thức của
chúng ta, mà hai tầng bề mặt và ḷng của nó, là thức và tâm, hay
chính là thức và trí tuệ giác ngộ, là hai mặt của một thực thể. Sông
dù có sóng nước bao nhiêu, th́ bên dưới ḷng nó măi cứ êm đềm tĩnh
lặng, cả hai mặt tĩnh và động chưa hề tách biệt. Và gần gũi nhất với
cốt truyện, đó là ḍng tâm, đó chính là điều mà Tất Đạt đă khẳng
định,“bất cứ ai hiểu được ḍng sông và những huyền bí của nó sẽ
hiểu được nhiều điều hơn nữa, nhiều điều huyền bí, tất cả mọi huyền
bí ”.
Tất Đạt và Thiện Hữu chính là hai khía cạnh thuộc mặt động của một
con người ; c̣n Vệ Sử phải chăng tượng trưng cho người thầy tâm
linh, đó chính là nẻo về tâm thể, mà bất ḱ lúc nào, hễ tự chính
ḿnh quay về với ḍng tâm hay chân tâm của ḿnh, th́ sẽ bắt gặp, như
là ư dụ của“quay đầu lại là bờ”, mà quay đầu chính là sự nỗ lực b́nh
sinh, là đích thân ḿnh chuyển hướng chứ không ai có thể thay. Nên
có lần đức Phật nói với chúng đệ tử rằng, “các đấng Như Lai chỉ là
đạo sư, là người chỉ đường, c̣n người đi đường phải là chính các
con”. Cũng có nghĩa là, con đường trở về chân tâm là con đường độc
hành của lữ khách đơn côi giữa trăng sao lạnh giá, bước đi trên “
chiếc cầu độc mộc”, phải đích thân dấn bước, không ai có thể bước
thay. Và cố nhiên con đường trở về với tâm thể này có năng lực khám
phá mọi huyền bí của kiếp người.
Tên gọi Mặc Giang như đă nói lên nội dung cuộc đời của ông, và nổi
bật nhất là thể hiện rơ nét trong tư tưởng thi ca hay sự nghiệp cầm
bút của nhà thơ. Ḍng sông trong Câu chuyện ḍng sông của văn sĩ
Hermann Hesse đầu thể kỉ 20 với ḍng “Mặc Giang” ngày nay, có một
ảnh hưởng hay đồng điệu ra làm sao, th́ một số tuyệt tác trong thi
phẩm của thi sĩ Mặc Giang là ch́a khóa cho ta mở cửa đi vào hành
tŕnh của huyền bí nhưng rất thực, rất đời thường ấy.
Tâm tư hay ḍng tâm thức của nhà thơ mà chúng ta t́m hiểu ở đây, là
vừa xuyên qua t́m hiểu những nét tiêu biểu mang âm hưởng của ḍng
sông đích thực, nhưng chứa đựng triết lư sâu sắc đằng sau hạn hữu
của ngôn từ; vừa gồm những áng thơ biểu hiện sự rung động từ sâu
thẳm của tâm thức, đó là tiếng nói trung thực nhất của cơi ḷng, của
nhăn quan sâu sắc, biết nh́n sâu vào sự thể của ḍng sống. Có thể
nói rằng, trong suốt hơn 700 bài thơ của Mặc Giang, th́ biên phú của
mỗi bài đều mang màu sắc thi ca, nhưng lại vừa mang dáng dấp của một
tổng thể hài ḥa giữa giả thiết, mở rộng, rồi giải quyết vấn đề một
cách triệt để sạch lóng, khiến người đọc không c̣n những dấu hỏi
thông thường, mà xuất hiện những dấu chấm than của cái gật đầu “vô
ngôn”.
Tất cả những biểu hiện của h́nh thái ư thức này, đă âm thầm mách bảo
cho chúng ta, chiều sâu tâm thức của ḍng sông Mặc Giang và ḍng
sông trong Câu chuyện ḍng sông của Hermann Hesse được xem như là
cuộc tao ngộ không lời của tri âm giữa hai thời đại, là cùng
trên một nhịp đập của hai khoảng thời gian, là cái lặng thinh của vô
ngôn, nhưng lại là đỉnh cao không thể luận bàn của ngôn ngữ, mà thời
không miên viễn vô cùng chỉ làm cho cả hai hướng về nhau trên cùng
một điểm “nhất”.
Có được một nhân duyên “định mệnh” với tinh hoa cốt truyện Câu
chuyện ḍng sông như thế, Mặc Giang đă học được những ǵ và cách
lắng nghe ra làm sao từ ḍng tâm thức (hoặc chân tâm), học được
huyền bí từ nó như thế nào? thi phẩm của ông đă nói hộ.
H́nh ảnh sông nước trong thơ Mặc Giang vượt lên trên những h́nh ảnh
nên thơ tầm thường của mọi ḍng sông hữu thể, trong Ḍng sông, tôi
gọi tên em, ông viết :
Nước không rẽ sóng đôi hàng
Sông nào uốn khúc bẽ bàng bờ lau
… Ngàn xưa sông vẫn một màu
Trầm trầm mặc mặc ngàn sau cũng là
(Mặc Giang Ḍng sông, tôi gọi tên em,)
H́nh ảnh con sông ở đây không là bóng dáng của Nhớ con sông quê
hương của Tế Hanh, hay ḍng Dương Tử mà ngày xưa đức Khổng Tử ngang
qua. Sông của Tế Hanh chỉ thuần một nỗi niềm kỉ niệm vương vấn t́nh
quê; sông của đức Khổng Tử là một sự trôi chảy không mệt mỏi dưới
chiếc bóng khắc nghiệt của thời gian, và rồi Khổng Tử chỉ buông một
tiếng thở dài ngán ngẫm cho vô thường của ḍng đời.
Sông của Mặc Giang đă thoát li mọi khái niệm định kiến thông thường,
v́ sông mà lại không có rẽ sóng, uốn khúc, và ngàn xưa cho cả mai
sau vẫn chỉ một h́nh thái, không thêm bớt, cạn sâu hay đục trong. Do
đó, có thể dùng tên “Em” để gọi ḍng sông. “Em” được hiểu là những
ǵ thân thiết gần gũi, có một quan hệ bất khả phân với tôi. Em và
tôi được thiết lập trên quan hệ tương tồn như nước với sóng; như bản
chất giữa ngộ với mê, hay cụ thể hơn đó chính là cái gọi “âm theo
tiếng, bóng theo h́nh ngàn năm”. Ḍng sông này phải chăng là biểu
tượng của tâm thể. Mà tâm thể th́ không hề sanh diệt, và chính nó
đưa con người đạt được yếu tính miên viễn của bản chất tâm linh, hay
chính là khả tính vô biên của từ tâm và sự thấu hiểu chân tướng vạn
vật.
Chính ḍng sông này đă cho Mặc Giang học được cách “tôi c̣n nhịp thở
không xin, đến khi lịm tắt tôi t́m bước sau”. Cũng chính là lúc tác
giả hiểu:
Qua ḍng sông ư thức, qua mấy nẻo luân hồi,
Và bốn loài sinh tử, chung cùng chỉ một thôi.
…Tôi là em tất cả, em là tôi nhiệm mầu
Đâu c̣n tan hợp nữa, muôn ngàn, hiện hữu
thôi
(Mặc Giang, nụ hồng cho em)
Chúng sanh hay Hiền Thánh, Địa ngục hay Thiên đường, tuy là hai nẻo
phân thù, nhưng quy hướng chỉ là một phương mà thôi. V́ chúng đều là
những biểu hiện khác nhau của sự khuấy động ḍng tâm thức, như muôn
ngàn con sóng lăn tăn đều không tách rời bản chất của nước. Xem ra,
ḍng sông hay nói đúng hơn là ḍng Mặc Giang đă cho nhà thơ hiểu hết
mọi bí ẩn của ḍng sống, thấu đạt được mối tương giao của hai bờ
sinh tử. Đó cũng chính là lúc ḍng sông dẫn tác giả đi sâu thẳm
trong tột cùng của tư duy, tận cùng của tư tưởng. Tại đây, Mặc Giang
hiểu sâu hơn :
Th́ ra đức Phật nói chữ Pháp thân,
Ngàn sao vụt tắt, hiện bóng phù vân.
(Mặc Giang, sắc không mỉm nụ vô cùng)
Tại đây, rơ ràng tác giả cho chúng ta hiểu sâu hơn về mối tương quan
giữa Pháp thân và sanh diệt thân. Quan hệ giữa hai thân này là quan
hệ của băng và nước. Nơi đây, Mặc Giang chỉ rơ, Pháp thân vốn li văn
tự nghĩ bàn, không thể nắm bắt qua khái niệm ngôn từ. Khi nói Pháp
thân chỉ là một khái niệm khô cằn gán ép vào thực tại, và chỉ làm
cho “ngàn sao vụt tắt, hiện bóng phù vân” mà thôi, bởi đó chỉ là sự
vốc nước trong ḷng bàn tay. Ngay khi thiết lập hai chữ “Pháp thân”
hay chân lí, cũng chính là chấp nhận một thực tại đă bị cắt xén qua
khái niệm, nếu vậy th́ qủa là vô lí. Trong mọi lập ngôn về bất ḱ
điều ǵ, đều đă mang ư nghĩa phủ định lại nó rồi. Con người cơ cảm
ngu trí không đồng, nên Phật phương tiện mượn lời nói hai chữ “Pháp
thân”. Ngay khi lập ngôn, th́ đă thiếu mất sự nhất thể, tính toàn
vẹn. Bản thân của chân lí, của Pháp thân vốn tṛn đầy, không phiến
diện. Hiểu được vậy, cũng chính là hiểu được “vẽ lên lối dọc đường
ngang, chữ tung biến mất, chữ hoành biệt tăm” của cái nh́n về thực
tại.
Đúng là trong ḍng Mặc Giang hay ḍng tâm, th́ không có bóng dáng
quá khứ và vị lai, mà chỉ có hiện tại như Vệ Sử đă nói cho Tất Đạt.
Về thời gian và không gian, tác giả quan niệm là:
Ta chẻ thời gian chẳng có ǵ,
Dọc đường trổi nhạc bước chân đi
…Ta cắt không gian thử mấy chiều
Một
ṿm trống rỗng tợ cô liêu
Đẩy đưa dung chứa cho cùng khắp,
Chẳng chút bớt thêm chẳng ít nhiều
(Mặc Giang, một nụ cười vang)
Trong nhăn quan tác giả, không gian thời gian chỉ là những quan niệm
được thiết lập trên tương quan đối đăi, là một ảo tưởng của tâm
thức. Ngôn từ và khái niệm về chúng th́ đứng yên, trong lúc đó, chỉ
có hiện tại th́ đang trôi chảy, sống động như một ḍng sông. Cho nên
tác giả cũng đă từng cảm nghe “tay cầm hạt chuỗi chưa lần, Long Hoa
đă hiện, Linh Sơn chưa tàn”. Làm sao có thể đi t́m kiếm và đợi chờ
Linh Sơn và Long Hoa, biểu tượng về một quá khứ xa xôi, và một tương
lai mờ ảo huyễn tưởng. Cả hai đă và đang cùng có mặt trong hiện tại,
trong ḍng tâm hiện tiền mà thôi. Cho thấy, tác giả đă chỉ ra, không
thể nh́n chân lí qua từng mảnh vụn bị cắt xén bởi khái niệm không
gian và thời gian. Không có cái ǵ hoàn toàn riêng rẽ, đây là hiện
tại, c̣n có kia là quá khứ, c̣n kia nữa là tương lai. Khi nói thời
gian th́ chỉ có một hiện tại tṛn đầy trước mắt, và đă bao hàm hai
khoảng kia, cũng như khi nói “đất” th́ đă bao hàm những yếu tố lửa
và nước rồi, chứ làm ǵ có một yếu tố “đất” riêng biệt để định danh.
Nếu bám víu vào một mảnh đă bị cắt vụn bởi khái niệm, rồi nói là
thực tại, th́ chẳng phải càng xa rời nó đó sao. Do đó, những khái
niệm sinh ra từ ư niệm thời gian cũng chỉ là ảo tưởng, là sự so
sánh, nên chúng cũng không thể đứng vững.
Chính nhờ hiểu được điều này thông qua sự liễu giải về ḍng sông
tâm, tác giả đă chỉ ra cho chúng ta, mọi lo sầu âu muộn, khủng
hoảng, không yên cũng chỉ phát sinh từ một ư niệm cố chấp sai lầm
về thời gian. Tại ư nghĩa này, Mặc Giang với một giọng điệu bội phần
ân cần thân thiết :
Chưa tới đâu, đă than đời mệt mỏi
Chưa kịp đói, đă sợ mất miếng ăn
…Chưa dăi dầu, đă sợ nắng sợ mưa
Chưa xuống hố, sao lại bảo chết rồi
(Mặc Giang, con người khờ khạo của tôi ơi !)
Than, sợ, lo lắng đều là tâm lí bất an phát sinh từ quan niệm có một
điều ǵ đó được đợi chờ, được xây tạo trong một không gian thời gian
cố định. Tại đây, thâm tâm của thi nhân chỉ cho chúng ta, chỉ khi
nào vượt thoát những cố chấp về ư niệm về không gian thời gian,
không bị trói buộc bởi những giả định được thiết lập trên đơn vị
không gian và thời gian, mới vượt khỏi ngục tù ư niệm; nhờ thoát
khỏi ngục tù ư niệm, mới có thể thoát li thống khổ.
Khi những khái niệm tương quan liên hệ đến không gian và thời
gian như đi, về, ở, trong ngoài, trước, sau… không c̣n tồn tại dưới
ánh sáng nguyên lí tánh không, hay cũng chính lúc hiểu rơ nó chỉ là
“mênh mông trống rỗng, cơi là về đâu”, th́ chúng ta sẽ nghe được tận
cùng của nẻo đến, đi chính là:
Hay về một cơi nhiệm mầu
Không thinh không sắc, không màu không vang
(Mặc Giang, mở cửa thềm hoang)
Chân thật của cơi đi cơi về sau hiểu rơ ḍng tâm là thế đó. “Cơi
nhiệm mầu” chính là “có th́ có cả hằng sa, không th́ không cả nữa là
hư vô”. Trong cái cơi không bị hạn cuộc bởi ư niệm không gian và
thời gian này, tác giả cũng đă xác lập một lối sống sao cho trọn
vẹn, sao cho ư nghĩa trong cuộc đời. Nhưng đó cũng chỉ là một cuộc
rong chơi phi thường, “rong chơi sinh tử cho đời bớt đau”, cũng tức
là sống sao để:
Cụ già hằn sâu nghe ngóng,
Em thơ đưa vói tầm tay,
Mẹ quê cằn khô mơ vọng,
Hoa cau thức trắng đêm ngày.
(Mặc Giang, bài ca sỏi đá)
Tại ư nghĩa này, tác giả muốn nói với chúng ta rằng, bạn hăy thử đặt
giả thiết, nếu ngày mai bạn đột ngột qua đời, th́ sẽ có bao nhiêu
người đến tiễn đưa bạn đến huyệt mộ; hoặc nếu không may, bạn bị sự
cố nào đó mà phải nhập viện mổ xẻ, th́ sẽ có chừng bao nhiêu người
viếng thăm, trầm ngâm, mắt ứa mờ hoen lệ, cúi đầu không nói năng
chi, ngồi với bạn mười lăm hai mươi phút. Giả thiết này sẽ giúp bạn
t́m ra câu trả lời chân thực nhất. Đó cũng chính là khi bạn đă xác
định được những người hiền trí đối với bạn ra làm sao, có mong mỏi
đợi chờ thân thiết như cụ già, như em bé, như bà mẹ quê, như hoa cau
ở trên không. Được vậy, cuộc đời sẽ đẹp làm sao, ư nghĩa biết bao,
v́ đă sống một cách đáng sống, không làm cho “hạt ngọc đă từ lâu,
ṃn gốc rạ” phải thở phào tiếc than!.
Chính sự thấu hiểu ḍng tâm thức đă cho thi nhân Mặc Giang học
được cách làm thế nào đểơ đi trọn vẹn con đường trên. Sự sâu thẳm
của ḍng tâm thức đă chỉ cho Mặc Giang con đường để thiết lập mọi
giá trị sinh tồn duy nhất, đó là yêu thương cuôïc đời này. Mặc Giang
thừa hiểu, yêu thương là quan trọng hơn bất ḱ điều ǵ cả, đến với
cuộc đời là đến để thương yêu kính trọng, chứ không phải đến để mà
lên án chỉ trích, hay phân tích một cách vô ích.
Và thi nhân Mặc Giang đă thể hiện ḷng yêu cuộc đời thông qua những
áng thơ đa dạng về thể tài, phong phú về thuật dùng từ và phương
pháp biểu đạt. Đôi khi biểu hiện qua phong cách xót xa thương cảm,
cảm thông cho những cảnh đời bất hạnh, thiếu mất một trong sáu giác
quan hoặc bệnh nan y, nghèo cùng khốn khó, nổi trôi lang bạt không
nhà; khi th́ biểu hiện qua phương cách ca ngợi t́nh thương, cầu
nguyện an b́nh, kêu gọi t́nh người ; đôi khi thể hiện qua sự trầm
thống xót xa trước tội ác lỗi lầm của con người; khi th́ tế nhị kêu
gọi t́nh bạn bè, t́nh quê hương thắm thiết; và có đôi khi th́ thể
hiện qua lời thơ cầu nguyện chấm dứt khủng hoảng đạo đức; có lúc th́
thể hiện qua giọng điệu của một người anh tâm sự tha thiết với đàn
em lầm lỗi, sa đọa; và đôi khi th́ lại là tiếng trách hờn đáng yêu
của mẹ trách con; đôi khi lại là buồn đau thống thiết trước bao
nhiễu nhương lắt léo, éo le của cách hành xử giữa con người; đôi khi
lại mô tả với giọng văn đau buồn ảm đạm thê lương về cảnh tượng chết
chóc do sóng thần, động đất, hay khủng bố dă man……, v́ cái chết của
họ th́, “ḍng thời gian là lâu đài sương bạc, bến không gian là dinh
thự rêu xanh”.
Trong bất ḱ lối diễn đạt bày tỏ nào đi nữa, th́ ḍng sông trầm tĩnh
sâu lắng (Mặc Giang) ấy đă thể hiện bằng các h́nh ảnh tứ thơ ngôn từ
phong thái, bằng hồn thơ rung động chân t́nh, thâm thiết, truyền đi
và vang vọng đến khắp chân thể của ḍng tâm linh. Tuy được tạo kết
bởi nhiều thơ phong, giọng điệu không giống nhau, nhưng mẫu số chung
vẫn là t́nh yêu thương, như nước trong khe trong suối, trong nguồn,
trong sông hay biển hay trong li…, tuy h́nh dáng không đồng, đều là
một tính nước. Ôi ! thật vô bờ vô bến, nói sao cho hết, kể sao cho
cùng! Nếu chứng minh mà chỉ dẫn dụng vài hàng, th́ không sao tránh
khỏi cái lỗi phiến diện, rất không toàn bích; nếu mọi t́nh huống đều
dẫn dụng th́ biết bao giờ cho hết. Chỉ xin ai đó nếu biết trân
trọng, lật xem hơn 700 áng thi ca của “Ḍng Sông Tĩnh Lặng” (Mặc
Giang), th́ chẳng phải một lần dấn thân cát bụi phiêu du trong thế
giới t́nh thương và tri thức, thật diễm tuyệt, nhưng lại rất đỗi
thân thiết, rất đời thường đó sao ??? Để rồi, ngày mai có sao nữa
cũng không đến nỗi phải ngậm ngùi luyến tiếc, biết trước như vầy,
th́ chi bằng khi ấy……. để thăng hoa cuộc đời.
Thi sĩ Mặc Giang đă ư thức sâu xa, có t́nh thương là có tất cả. T́nh
thương là suối nguồn của sự đạt ngộ giải thoát; không có nó, cuộc
đời sẽ ảm đạm hơn nghĩa địa một chiều mưa, và an lạc giác ngộ không
có cơ sở để thiết định. T́nh thương yêu cuộc đời trong thi ca Mặc
Giang chính là ḷng bi mẫn. Có ḷng bi mẫn th́ sẽ có mọi pháp lành.
Dịch giả Liên Hoa chuyển dịch đề tài về Ḷng Bi Mẫn, đăng trên trang
mạng Đạo Phật Ngày Nay, có đoạn :
Nếu một người có ḷng bi mẫn, người ấy là vị Phật;
không có ḷng bi mẫn, người ấy là Thần Chết.
Với ḷng bi mẫn, cội gốc của Pháp được vun trồng
…Với ḷng bi mẫn, ta có mọi Pháp.
Không có ḷng bi mẫn, ta chẳng sở hữu Pháp nào.
Với ḷng bi mẫn, ta là Phật tử chân thực.
Không cóḷng bi mẫn, ta tệ hơn kẻ trần tục.
Ngay cả khi thiền định về tánh Không, ta cần có ḷng bi mẫn như cốt
tủy của nó
…Ḷng bi mẫn hoàn thành những hi vọng bản thân và chúng sanh
Chỉ cần chừng ấy, cũng đủ cho ta hiểu tại sao nhà thơ Mặc Giang thấu
hiểu sâu sắc t́nh thương là điều quan trọng trong cuộc đời. Tuy
nhiên, cần hiểu, việc có mọi Pháp, là một tất yếu tự nhiên cuối cùng
nằm sau đức tính phát triển nuôi dưỡng t́nh thương, chứ không là mục
đích được đặt ra đầu tiên khi t́nh thương chưa thiết lập. Vậy, việc
ban trải phát tán t́nh thương của nhà thơ Mặc Giang càng không là
mục đích để cụ già hằn sâu nghe ngóng, em thơ đưa vói tầm tay và hoa
cau thức trắng đêm ngày. Là hiện tượng hữu xạ tự nhiên hương. Nhă
hương là bản chất vốn có của hoa, nào bao giờ có ư gọi mời ong
bướm đâu! Nhưng những đáp trả ấm áp của người khác, chứng minh ḿnh
đă sống ra lẽ, sống thật đáng sống, như mục tiêu sống của nhà thơ đă
được minh định ngay từ đầu, là sống làm sao cho có ích, v́ “thân cát
bụi, cũng tiêu ma một kiếp”
Dấu hiệu trên c̣n chứng minh rằng, thi nhân đă đứng vững trên
nhịp cầu giữa ḷng bi mẫn yêu thương và giác ngộ. Có t́nh thương sẽ
có giác ngộ, giác ngộ về tính bất sanh diệt trong các Pháp, giác ngộ
về tương quan giữa Pháp thân và sanh diệt thân. Nhờ đó sẽ giác ngộ
không gian và thời gian chỉ là ảo giác ảo tưởng của tâm thức, cả hai
vốn là một nhất thể, vốn không có mặt trong chiếc áo khái niệm mà
con người đă khoác lên nó. Bấy giờ sẽ thoát li mọi khổ đau do vọng
tưởng, lo lắng đợi chờ, bất an và khủng hoảng tâm lí.
Trở lại bên ḍng sông, nơi mà Tất Đạt t́m được an lạc đích thực
sau bao năm lặn hụp trong khổ đau tuyệt vọng và ḍng Mặc Giang tĩnh
lặng, ta thấy chỉ một thể, cả hai đều trôi chảy về hạ nguồn của kiếp
sống nhân sinh, mà hai bờ của nó là hoa trái của t́nh thương, sự
sống, và tuệ giác. Trong đó ta thấy rơ một Tất Đạt đang chèo chiếc
“thuyền không đáy”, một Vệ Sư,û người Thầy đă được giáo dục nhờ con
sông và không cần bất ḱ sách vở hay thầy nào cả, đă biến hút trên
ḍng sông vô tướng và ḥa nhập trọn vẹn trong từng hơi thở nụ cười
thánh thiện của Tất Đạt, rồi th́ thầm với chàng: “khi mê th́ Thầy độ
con, khi ngộ rồi th́ con tự độ”. Rồi ta thấy một Thiện Hữu “đă dừng
chân”, không c̣n t́m kiếm bất ḱ điều ǵ nữa, không c̣n ám ảnh bởi
bất ḱ mục đích nào nữa, bởi đă chứng nghiệm được sự Nhất Thể sau
hôn lên trán Tất Đạt, nơi đă cho Thiện Hữu thấy được bao trôi nổi
diệt sanh của bao cơi đời trong tương quan vô tận. Đây là sự thống
nhất của trong cùng một con người. Xuyên qua ba h́nh ảnh này, ta bắt
gặp một ḍng sông tĩnh lặng--- ḍng Mặc Giang. Đây là một ḍng tâm
thức, một chân tâm, một hoài bảo, một tâm hồn rộng mở, một t́nh
thương vô hạn trước ḍng đời cát bụi mịt mù, một lối sống cho cả mọi
người, một tâm nguyền cho cả tinh cầu. Nhưng rồi ra, đó cũng chỉ là
“bài thơ không đề, nhưng cũng là bài “thơ gác đầu non nh́n bóng
nguyệt, thơ nằm góc biển ngắm trăng mơ”, với nỗi niềm b́nh dị là :
Tôi viết cho đời bớt khổ đau
Đừng gây ai oán tạo ưu sầu
Đừng mang cay đắng xây phiền lụy
Mà kết hương thơm đượm sắc màu
Bài thơ tôi viết gợi yêu thương
Mở cửa cảm thông mọi nẻo đường
Xoa dịu vạn sầu đeo thế kỉ
T́nh người vun vén, lấp tang thương
(Mặc
Giang, tôi đâu có nói tôi làm thơ)
Đây chính là chất keo tạo nên tính phổ quát trong hồn thơ của Ḍng
Sông Tĩnh Lặng. Cái tính phổ quát này làm cho bất ḱ ai và vào bất
ḱ thời đại nào đều có cảm tưởng như thi nhân đang nói với chính họ,
họ luôn thấy ḿnh có mặt trong hầu hết mọi t́nh huống, ai cũng có
thể cảm thấy cảnh đời của ḿnh được phản chiếu qua thi phẩm của Mặc
Giang. Nhưng chính trong cái tính phổ quát ấy vốn cũng đă bao hàm
tính đặc thù, v́ trong tất cả mảnh đời, con người, tánh hạnh của anh
của chị của em, đều có h́nh ảnh của cuộc đời của riêng ḿnh, con
người tánh hạnh của riêng ḿnh.
Nói chung, t́nh yêu thương cuộc đời là chủ đề xuyên suốt bàng bạc
trong gần toàn bộ đại tác của nhà thơ Mặc Giang, được thể hiện qua
nhiều thể tài và tứ thơ, nó là chất phù sa ngọt ngào tô bồi cho ḍng
sông thơ thêm tươi mát ngọt lành, cho thần bút mở ngơ đi vào vô tận
của thế giới thi ca. Đây chính là bí quyết, là hướng đi đích thực mà
ḍng tâm đă chỉ dạy cho thi sĩ, hay chính là điều mà Mặc Giang học
được mọi chuyện từ sâu thẳm của ḍng tâm thức, cũng như Vệ Sử nói
với Tất Đạt, ḍng sông biết mọi chuyện, người ta có thể học mọi
chuyện từ ḍng sông.
Vậy, với t́nh thương cao thượng, với ḷng bi mẫn xót thương cuộc
đời từ ư thức sâu sắc, liễu tri được bản tâm, hay chiều sâu của tâm
thức, thi sĩ Mặc Giang đă hội đủ những yếu tố xây dựng thành công
suối nguồn luân lí đạo đức chuẩn mực, mở ra cho cuộc sống đương đại,
cho con người đang sống trong ngục tù hắc ám của tội ác vô minh một
cơ hội chuyển hóa, quay về với cội nguồn thánh thiện.
Sự tự đặt định cho ḿnh bút hiệu Mặc Giang cách gần 40 năm về
trước, dù đó là cái tuổi ấu thơ, chỉ là xuất phát từ trong tiềm tàng
của vô thức, nhưng đó chính là sức mạnh của một đ̣n bẩy, của cái
búng, là sức mạnh tiếp sức cho Ḍng Sông Tĩnh Lặng của ngày sau biết
chảy vào ḍng đời những hồn thơ đầy ắp t́nh người, chứa đựng bao
triết lư thâm sâu, và h́nh như không những không biết mệt mỏi, mà
c̣n nhiệt huyết, chân thành và tràn đầy thân thiện.V́ vậy, Ḍng Sông
Tĩnh Lặng cũng chính là độc thoại nội tâm, nhưng cũng chính là đang
thỏ thẻ với cả non sông. Th́ thầm thủ thỉ vạn lời với đất trời,
nhưng lời của người độc thoại, nên thật ra cũng chẳng có ǵ để trao
đổi, như Tô Thức (1037-1101), một văn nhân đời Tống, nói :
Tiếng suối chảy trong khe, là tiếng suối
nhiệm mầu
Khói lam trên núi biếc, đâu chẳng là Pháp
thân.
Đêm nghe trong tịch lặng, tám mươi ngàn kệ
tụng,
Nhưng
mai gặp tri âm, chẳng có ǵ luận bàn.
Một cái đặt tên mà có năng lực quyết định cả một cuộc
tử sinh, một lần đặt tên
để thêm phần ư thức, để sống trọn vẹn như một lời thệ hải minh sơn,
hay một lần vừa chơi cút bắt, vừa trông nhà trước vườn sau cho mẹ,
nhưng cũng tranh thủ lật nhanh gấp chậm trang sách Câu chuyện ḍng
sông, để rồi cái tên tự đặt ấy cùng với tâm tư t́nh cảm như đă và
đang ghi lại dấu son trong ḍng đời phù phiếm, để lại tiếng vang
theo ḍng thời gian.
Tôi cũng không dám hoàn toàn khẳng định, nhờ hồi nhỏ đặt bút hiệu ấy
mới có ngày hôm nay, bởi trong trong con người thi nhân sinh ra vốn
đă có chất liệu ấy rồi. Khi đặt tên đó, khi lấy bút hiệu đó, th́ chỉ
như một sự xác định lại lần nữa mà thôi, nhưng vô cùng quan trọng,
như là lời thức tỉnh nhắc nhở của một bậc Thầy bên cạnh, như bậc
Thầy Vệ Sử ngày xưa đă dẫn dắt thức tỉnh cho Tất Đạt vậy. Và bây giờ,
trên con sông tĩnh lặng này, tuổi thơ ngày xưa hay nhà thơ Mặc Giang
ngày nay là người lữ khách đi t́m trăng sao cửa động, đá đầu non, và
con đường để đi, hay lối về chỉ là “chiếc cầu độc mộc”, cheo leo
giữa thế giới ba ngàn. Để từ đó, lời thơ, ư thơ như sông suối, dù có
ồ ạt tuôn chảy muôn hướng ngàn phương, nhưng cũng vẫn luôn vần vũ,
lưu động, lên xuống, lại qua giữa đôi bờ t́nh thương và trí tuệ.
Trở về
|