THƠ


NHẠC


Chùa
 Pháp Quang


 


 

Home

 

 

 



Thơ Mặc Giang
 qua cái nh́n của các giới học giả
---o0o---

T́m hiểu nhân sinh quan
trong thơ Mặc Giang

 Nguyễn Trần Nhất Sinh 

(Những vế, câu ở trong ngoặc kép "", nhưng ngay trước và sau nó không nêu xuất xứ, cũng là thơ của Mặc Giang)

 

Quan niệm, quan điểm về bản chất hay nguồn gốc con người và vạn hữu, là thuộc triết học hoặc siêu h́nh học, đă có những minh sư hiền triết tŕnh bày dưới nhiều quan điểm và dạng thức khác nhau. Tùy mức độ trí tuệ nhận thức của loài người, mà quan niệm đó được nh́n nhận đánh giá thông qua những giá trị khác nhau.

 Trong ḍng sống không thể h́nh dung đâu là khởi thủy này, sự xuất hiện mỗi tư tưởng, vừa được xem là sự tiếp thu một cách sâu sắc, thông minh, biết phân tích và sáng tạo về triết lí nhân sinh, nhưng cũng vừa là một tư tưởng đột phá tuyệt siêu. Tư tưởng đại diện trong một thời đại nhất định nào đó, tuy được xem là sự thống nhất hài ḥa của xưa và nay, tiền bối và hậu bối ; thế nhưng giá trị sau cùng vẫn chính tùy thuộc trí tuệ sắc sảo nhạy bén, biết suy tư và chiêm nghiệm một cách thông minh, sắc bén, thuần chính. Từ góc độ này để nhận định đánh giá một tư tưởng lớn, th́ dù muốn dù không, cũng phải khẳng nhận rằng, tư tưởng thơ Mặc Giang đă chiếm một vị thế ổn định sáng giá trong ḍng tư tưởng viên dung giữa triết lí hiện sinh và triết học tư biện. Xuyên qua ng̣i bút kiều diễm, lời thơ thống thiết, như đang chắp cánh bay vào cuộc sống để cải tạo cuộc đời của ông, chúng ta sẽ có cơ hội có được cái nh́n, cách nghĩ cuối cùng độc lập khách quan đối với tư tưởng thơ Mặc Giang.

 Qua thơ ông, ta thấy cái gọi là vạn hữu vũ trụ có mặt từ thuở hồng hoang, hay kiếp sống con người lan trải rộng dài trên vạn nẻo đường, luôn trong trạng thái diệt sanh, sanh diệt nhanh hơn ḍng thác lũ. Sống và chết, chết và sống là những cơi đời vô định phiêu lưu. Xưa nay, những biến cố hải chấn, địa chấn và bao tai họa khác, làm hàng ngàn hàng vạn người "mới ngày nào những ân t́nh tŕu mến, mới ngày nào những bịn rịn chia xa" đột ngột đi vào cơi chết đến năo ḷng, th́ ai cũng sẽ thấy :

 

Sống và chết, không kịp chia tích tắc

Có khi chết một cái ào, tím ngắt

Có khi chết một cái ào, im re

Có kinh chết, một cái ào nín khe

Thật mơ hồ, trông c̣n hơn mộng mị

(Mặc Giang, bảo vệ hành tinh xanh)

 

Sự biến chuyển từ mạch sống hân hoan trong dệt mộng ươm đời hạnh phúc, đến cái chết kêu ông xanh không thấu, gọi bà dày không hay như thế, đúng c̣n hơn cả chiêm bao. Trong thế giới đối đăi, mộng th́ không phải thực, mà thực th́ không phải mộng, nhưng giờ th́ không thể phân ranh xẻ giới. V́ "chết thật t́nh mà nghe sao vô lí, ...mới đó mà trôi về một cơi lăng quên, mới đó mà lung linh mờ cát bụi". Triết lí về vô thường biến hoại ở đây khiến ta ư thức được, "trong hội ngộ đă sẵn mầm chia li...". Đồng thời với ư thức này, người ta càng thấu biết "trong tích tắc, biết bao nhiêu sự chết, chứ đâu cần một đêm với một ngày, chứ đâu cần một tháng với môït năm..."

H́nh ảnh thân thiết gần gũi sau chết chóc li tan, là một hiện trạng chua chát phủ phàng, khiến con người thêm chán ngán về sức mạnh của vô thừơng, là h́nh ảnh một chiều nào đó:

      

Đi trong nghĩa trang chợt nh́n nấm mộ

Nắp quan tài vỡ một lỗ tan hoang

Nh́n vào trong tôi rún rấy bàng hoàng

Một đầu lâu với xương khô vụn vỡ

...Nấm mộ kia một thời nào kiếp trước

 Nắm xương tàn c̣n sót lại phôi phai

(Mặc Giang, vào cửa tử tôi t́m về cơi chết)

 

Lối nh́n nhận, quan niệm sâu xa thống thiết về lẽ sống như thế, biết đâu có ai đó trong cơi diêm phù ngộ tưởng là cái nh́n thiếu lạc quan, buồn tẻ thê lương. Sao không thả mộng hồn say phách tán cho chuỗi ngày hoan lạc dương gian, mà lại trầm ngâm với nỗi buồn năo nề cơi chết. Đâu không biết rằng, trốn chạy, phớt lờ, không đủ nghị lực, không dám đối diện sự thật muôn đời, khiếp sợ đến nỗi không dám nh́n, không muốn bàn, mất đi tiết khí chí dũng trong đời, mới là bi quan. Tội nghiệp, và xót xa biết bao !!!...

 Trong cái gọi là "sống và chết gảy cung đàn bất tận" hay là "tử sinh hai nhịp vơi đầy, cung đàn sống chết c̣n đây vô thường" ấy, là có cơ hội để con người tiếp xúc với triết lư trong ḍng sống chết luân lưu. Đó là tiếng chuông báo động về luân hồi. Ư thức, ư niệm về luân hồi, là một trong những nét son về triết lí hiện sinh nổi bật trong thơ Mặc Giang. Tŕnh bày về triết lư này, Mặc Giang nói :

 

Khi ḍng sinh đă bắt đầu chuyển mạch

Th́ ḍng tử mở ra mt cơi đi về

Hoặc                                                                                                  

Khi cơi sinh hiện ra thêm một vệt

Th́ cơi tử lại trống mất một ô  

(Mặc Giang, Tôi bước đi giữa đôi bờ sinh tử)

 Ông chỉ ra, sống và chết chẳng phải hai cơi riêng rẽ phân thù sai khác, mà tương quan mật thiết, bất khả phân giữa hai chỉnh thể đối lập, thống nhất trong mâu thuẫn. Nó là một ṿng tṛn khép kín liên tục. Ngay khi mạch sống mới bắt đầu hé nụ, th́ mầm chết đă kết trái trên cánh hoa tàn. Để có một chúng sanh thọ thai ở nơi này, th́ trước phải có một chúng sanh ở chỗ khác qua đời. Trong Vạn Hữu Trường Ca, phần "ma quỷ thân thương", Mặc Giang tả : "ḱa em bé vừa sinh ra đó, trên dương gian bỏ xó một người. Em cười mở mắt sáng ngời, đă tan hồn phách của người trần gian." Em bé quỷ con mới sinh ra đó, không ai lạ, mà chính là tái sinh thoát kiếp của một linh hồn của kiếp người. Tác giả lại khẳng định thêm : 

 

            Sáu nẻo xuống lên là chi nhĩ !

            Bốn loài sinh tử tợ chiêm bao !

               Xa xưa như mới hôm nào !

            Ngày mai mờ mịt cớ sao đón chờ ?

( Mặc Giang, Vạn hữu trường ca )

 

Trong mạch tử sinh luân hồi, là h́nh ảnh của những kiếp thác thai bất định, hôm nay là người, nhưng mai kia là kiếp sống thay h́nh đổi dạng trong mạch tương lưu giao cảm của kiếp hữu t́nh. Con người sau khi chết không nhất định tái sanh trở lại làm người, mà tái sinh xoay chuyển vào trong sáu cơi bốn loài, bởi con người không phải là chúng sanh duy nhất. Do đó có thể kết luận, "tử là điểm ngừng mà sinh là tinh ba xuất phát, linh tri đó ứng tùy một thân khác, chiêu cảm cùng vạn hữu khứ lai ", và v́ "khi đă đi th́ không phải là hai, nhưng khi đến là hai chứ không phải một, như một bản trường ca tương tục âm thanh nhiều nốt...". Chết chỉ là đánh dấu bước ngoặc chuyển tiếp trong ḍng sống luân lưu vô tận, c̣n linh tri hay linh hồn tiếp tục trong một đời sống mới, như mặt trời tuy lặn nơi này, nhưng thực tế đang mọc ở nơi kia. Th́ ra, "giữa tử sinh có sợi dây vô h́nh ḱ diễm, như bản trường ca sinh tử vô cùng." 

 Thế nên, chết là sự thể hiển nhiên đau thương ngàn đời hiển hiện, nhưng chỉ là huyễn hữu như giấc mộng phù du, v́ "lang thang từ kiếp luân hồi, mà không thật có có luân hồi cưu mang, vẽ lên lối dọc đường ngang, lối dọc biến mất lối ngang không về, tử sinh sinh tử lí hề ......" Cả nhân gian sinh tử luân hồi thống khổ mà chỉ như một tṛ hề. Sau hiện tựơng sống chết ấy là cái không từng sống chết.

 Triết lư về sống chết của nhà thơ Mặc Giang, cho chúng ta hiểu rơ, hai bờ sống chết là trên cùng một mạch tương thông, mà ở đó đâu c̣n nghe tiếng gơ nhịp của thời gian. Giá trị thời gian không thể thiết lập. Theo Mặc Giang, ư niệm sanh và tử, chỉ  là danh từ của tương quan đối đăi, trong những giả định về thời gian. Xuyên qua đó, nhà thơ cũng đă chỉ ra, trong hiện tại cũng có mặt xa xưa, và trong xa xưa cũng vốn đeo ḅng cái hiện tại sống động này đây, và tương lai càng không thể thiết lập và minh định. Thông qua chuỗi luân hồi sáu nẻo, Mặc Giang cho chỉ chúng ta nhận thức được triết lư về thời gian theo Kim Cang Kinh , là "quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc." Ư thức được sự tương quan giữa ba khoảng thời gian ấy, là cơ sở để chúng ta càng hiểu thức rơ :

 

  Mồ hoang như ảnh ảo huyền

            Thân như bèo bọt nương thuyền phiêu du

            Từ trong cơi mộng âm u

            Em như điểm sáng thiên thu vẫn c̣n

           (Mặc Giang, Vô t́nh tôi thăm Nấm mộ hoang Bé Thơ)

 Em ơi ! buồn khóc mà chi, tiếc thương mà chi ! Nấm cô mộ lạnh lùng đến tàn nhẫn ấy, nào phải h́nh hài đích thực của em, nó chỉ là " ảnh ảo huyền". Em vẫn c̣n măi giữa thuyền đời vô tận đó nghe em, ! Tôi đă thấy rồi, em ra đi lang thang từ ngàn xưa, và cho đến cả mai sau. Do đó nên biết, tuy là "đường sinh tử đă ṃn lối cũ, nẻo hợp tan đă phủ bao lần, bụi mờ rũ bóng phong trần" , nhưng mà em và tôi vẫn chưa hề sống hay chết, vẫn là "trăng sao chưa nhạt phù vân chưa nḥa." Đây hẳn là sự tương quan giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa hữu h́nh và vô h́nh, giữa vật chất và phi vật chất. Trong sanh diệt, tồn tại cái không từng sanh diệt, đó là chân thể bất biến, là linh tri vĩnh hằng. Sống và chết có mặt trong nhau, là sự tương quan :

      

        ...Sông với nước chung đôi một bóng

           Nước với sông một bóng chung đôi

           Trăm năm cũng chỉ một đời

           Ngh́n năm cũng chỉ một lời nước sông.

           ( Mặc Giang, Vạn hữu trường ca )

 Ĺa sông th́ đâu c̣n nước. Không nước th́ sao có thể thành sông. Sông nước chỉ là hai khái niệm được thiết lập trên trục tương quan đối đăi. Thực chất là một quan hệ đẳng thức. Trong sinh diệt có cái bất sinh diệt. Trong ra đi đă có sự hứa hẹn trở về. Trong cơi đi về đă có sẵn ngày biệt li. Qua tŕnh bày triết lư về ḍng sinh mệnh, Mặc Giang chỉ ra, không cần phải né tránh cái chết, và đi t́m cầu sự sống, v́ cả hai vốn có mặt trong nhau, vốn có quan hệ "sông với nước chung đôi một bóng, nước với sông một bóng chung đôi... sông đă có cớ chi nhớ nước, nước đă ḥa một thể cùng sông." Hiện tượng sóng đào bọt bèo phập phều của sông vốn không tách rời bản tánh bất biến của nước. Cái hạn hữu sinh diệt diệt sinh theo thời gian và ư niệm, nào có cách biệt với cái bất sinh diệt.

 Vậy nên, chớ khi sinh ra mới bảo là có, chớ khi chết rồi mới nói là không, v́ "có từ thuở hồng hoang mờ ảo, tán từ thời tuyệt xảo lân tinh, mờ mờ ảo ảo dáng h́nh, có không không có lưu linh vậy mà." Nên nếu bảo rằng không, th́ phải không ngay lúc ra đời . Nếu nói có th́ phải ngay khi không. Ư niệm về "có- không", không nên để bị đánh lừa bởi thế giới hữu h́nh, vô h́nh, hay bởi kiến văn giác tri thường thức. Mặc Giang c̣n chỉ rơ thêm, "sinh là lúc từ không ra có, tử là thời từ có ra không, có không một thể tương đồng, duyên c̣n ta có đến không ta về" .V́ "có không một thể tương đồng", nên chớ khi sanh mới nói là có, khi chết rồi mới nói là không. Cả hai đều vần vũ có mặt trong nhau. Hiểu được vậy, cũng chính là lúc ta huênh hoang hát lời ca trên đồng hoang sinh tử:

 

Từ trong cát bụi tử sinh

Ta xin nhớ lại bóng h́nh của ta

Từ trong tỉnh mộng đêm qua

Ta xin nhớ lại quê nhà xưa nay

(Mặc Giang, Ta đây, hiện hữu vô cùng )

 Do thông suốt lẽ sinh tử, nên nơi đây, Mặc Giang đă chỉ rơ thêm, lặn hụp chơi vơi trên từng nhịp bước tử sinh như sự chuyển tiếp của sóng ṃi, như cát bụi hư nát phủ mờ ḍng sông, thế nhưng bản tánh chân thân chưa từng biến chuyển đổi thay. Ra đi biền biệt trong dặm trường tử sinh, nhưng ta nào có ra đi, mà đă và đang trở về với ngôi nhà chân thể. Thế nhưng trở về mà thật sự đâu có trở về, v́ có ra đi bao giờ đâu mà trở về. Ngôi nhà quê hương xưa ấy vốn ở ngay trong mọi sinh linh. Từ đó, sẽ vang vọng "tiếng hát chưa tan" :

 

Tôi đi từ chỗ không đi,

Luân hồi không đến ngại ǵ có không

Tôi đi pháp giới rỗng không,

Tôi về vạn hữu hằng c̣n hiện ra

(Mặc Giang, Sắc không mỉm nụ vô cùng)                                                            

 Tại đây, quan niệm về nhân sinh và vạn hữu của thi hào Mặc Giang đă đưa chúng ta đi sâu thẳm hun hút tận cùng của lối về tĩnh lự, để phóng cái nh́n sâu thẳm vào diệt sanh của ḍng đời, vào hữu hạn của kiếp người. Con người lù lù một đống ấy v́ không thật có, nên nói rằng sinh ra từ chỗ không sinh, mà chết đi cũng chẳng phải đi vào cơi lung linh ảo huyền. Đi hay về, sống hay chết, chỉ trên cùng một mạch tương thông lưu cảm, nào có ngại ǵ "có" với "không". Pháp giới c̣n đó nhưng lại hằng rỗng không, vạn hữu rỗng không nhưng không khi nào không hiện hữu. Từ trong hữu thể mà thấu đạt vô thể, từ trong hữu cùng mà thấy rơ vô cùng, nhà thơ lại dẫn chúng ta trên lộ tŕnh đi về "nguyên sơ, c̣n đó bóng h́nh" :

 

          Vỡ toang, chấn động ba ngàn

          Mười phương thế giới chưa tràn chân lông

          (Mặc Giang,Ta đây, hiện hữu vô cùng )

 

Cả vũ trụ mênh mông, càn khôn mười phương thế giới khôn cùng như thế, nhưng lại nhét chưa đầy một chân lông. Theo chiều hướng tư duy thông thường, sẽ thấy thật qúa vô lư, nghịch biện, làm cho choáng voáng, vo đầu bóp trán. Thế nhưng nhà thơ Mặc Giang chẳng phải chỉ nói rơ sự thật muôn đời, chân lí vĩnh hằng đó sao. Ba ngàn cơi nước và mười phương thế giới chỉ là có ở hiện tượng phù phiếm huyễn hóa, như hoa đốm trong hư không, bởi lư thể nó là không. Nhờ "không" mà thiên hà đại địa và con người có mặt. Ĺa "không" th́ ngay một vi trần cũng không thể tựu thành. Pháp giới tuy thiên h́nh vạn trạng, nhưng thực chất không thể nắm bắt và khái niệm. Do đó "mười phương thế giới chưa tràn chân lông" chính là triết lư "sắc chẳng khác không, mà không cũng chẳng khác sắc". Tuy như thế, nhưng thực ra nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ chẳng phải dừng lại ở chỗ minh định sự không khác nhau giữa không và sắc, mà chính đang triển khai tư tưởng biện chứng về mối quan hệ tương tức tương nhập, mở ra một " cơi đi về" trong vô thỉ vô chung, đó là "sắc tức là không", và "không cũng tức là sắc". Đó chính là thông điệp của "pháp huyền vi có mặt từ nhịp bước vạn đừơng... có với không thật ra chỉ một chữ, không với có thật ra chỉ một lời" . Từ đây, nhân sinh quan của nhà thơ như nhắn gởi cho nhân loại hiện tại này và mai sau khúc ca chứng đạo bay vào cát bụi của kiếp người, là "đă không th́ mấy cũng vừa, có th́ một điểm cũng thừa mà thôi" 

 Thông qua nguyên lí sắc không ấy, nhà thơ đă mang lại cho con người cái nh́n triệt để tận cùng huyền vi. Con người và vũ trụ vạn hữu chỉ sanh diệt c̣n mất trong thế giới hiện tượng, c̣n bản thể th́ chưa từng sanh hay diệt, đến hay đi....... Chính nó tự tiêu dung trong những phạm trù khái niệm đối lập. Thế giới và nhân sinh vốn tồn tại từ vô thỉ, nhưng cũng chính là vừa xuất hiện ngay trong đương niệm. Tất cả vạn hữu trải dài trong vô tận, không ngằn mé, nhưng cũng chỉ là nhét chưa đầy chân lông cọng tóc mà thôi. Chúng ta thấy rơ ràng, trong quan niệm về nhân sanh vạn hữu, nhà thơ Mặc Giang đă vo tṛn đơn vị không gian và thời gian thành một khối "nhất chân", không t́m đâu ra, nhưng không đâu mà không có. Không đâu không có nhưng lại là mất hút tự ngàn xưa và chưa từng lên tiếng bao giờ. 

 Ngay khi nói, "sắc chẳng khác không", là trong thâm ư Phật Tổ đă muốn nói "sắc tức là không" rồi. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại đưa ra luận thuyết về sự tương quan giữa sinh tử và không sinh tử, giữa hiện tượng và bản thể, hay nhân sinh là vô thường biến chuyển, luân hồi, khổ đau, không thực có. Mục đích tối hậu mà nhà thơ Mặc Giang, chính là muốn chỉ ra cho con người, muốn thắp sáng cho cuộc đời là nguyên lí duyên khởi của sự vật, đó là một chuỗi móc xích liên hệ vô cùng, cái này có nên cái kia có, cái này không th́ cái kia không. V́ mang tính chất duyên khởi, nên vô ngă vô thường khổ đau và luân hồi. V́ duyên khởi nên tánh vạn pháp là không. Tánh của vạn hữu là không là v́ duyên khởi.

 Nhờ sự chiếu rọi của ánh sáng duyên khởi, con người mới hiểu rơ, sinh tử sở dĩ có mặt là do sự khơi đôïng của sơ niệm vô minh, là sự khơi ng̣i của tiến tŕnh luân hồi và khổ đau. Cho nên nói rằng, vô minh, là cái bất giác đầu tiên trong tiến tŕnh duyên khởi của ḍng sống. Mà những ǵ được vận hành dưới nguyên lí duyên khởi th́ không thật. Nên vô minh không có cái ngă tồn tại biệt lập, v́ vậy có thể chuyển hóa. Chỉ khi nào chuyển hóa hay chấm dứt vô minh, mới chấm dứt mọi tiến tŕnh sống chết. Vậy, đưa ra cái nh́n về sự tương quan giữa bản thể và hiện tượng của ḍng sinh mạng con người, nhà thơ Mặc Giang muốn không những chỉ có chỉ ra cho con người hiểu rơ bản chất ḍng sống là duyên sinh, không có một cái ngă độc lập, mà c̣n muốn nói rằng, trần gian là hoàn toàn có thể cải tạo chuyển hóa, khổ đau có thể chuyển thành  an lạc.

 Từ những ǵ đă đề cập khái quát sơ lược trên, chúng ta thấy nhà thơ Mặc Giang có cái nh́n thẩm thấu, trầm thống, sâu sắc về những giá trị vĩnh hằng và khiếm khuyết của nhân sinh. Cái nh́n này đương nhiên đă được sàng lọc qua sự phân tích hợp lư, thực nghiệm, kinh nghiệm sâu dày của con tim và khối óc. Con tim đă từng rung lên từng nhịp đập yêu thương cuc đời, khối óc đă bao kiếp rồi thẩm thấu liễu tri những vụn vỡ thành hoại của ḍng sống. Từ đó, cho chúng ta càng thấy rơ, nhân sinh quan của ông hơn lúc nào hết, cần được tư duy phân tích một cách chín chắn, siêu việt những giá trị khoa học thường thức, để đi đến tiếp nhận như không khí và hơi thở. Nếu không, th́ những giá trị quư báu chân thực về quan niệm nhân sanh sẽ đi vào hư ảo méo mó, rỗng không và tụt hậu.

 

Trở về