Thơ Mặc Giang
qua cái nh́n của các giới học giả
---o0o---
Biểu hiện tinh thần khí chất Việt Nam
trong sáng tác của Mặc Giang
(Tất
cả những chữ xiên là thơ Mặc Giang)
Hồ
Bảo Quốc
Thơ Mặc Giang đề cập nhiều nội dung, trong đó không chỉ là
triết lư sắc- không, là hoa lá cỏ
cây, nghệ
thuật ngôn ngữ, mà chủ yếu c̣n là một mạch tương thông với mộng cảnh
nội tâm thâm sâu của tinh thần, tiết tháo, phẩm chất vốn có của
người Việt Nam qua bao thời đại. Tuy nhiên, đôi khi lại trực tiếp
viết về tinh thần ấy của của người Việt Nam biểu hiện qua lời nói,
hành động; nhưng đôi khi cũng một cách nghệ thuật, biểu hiện chúng
bằng cách thông qua miêu tả cái đẹp, cái hồn của vạn vật, thiên
nhiên. Thơ Mặc Giang cũng bao gồm những từ ngữ hay đẹp như Trường
Sơn, Thái B́nh, sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng Hà, sông Thu Bồn,
sông Gianh, Bến Hải, Bắc Ninh, Thăng Long, Hồ Gươm…. Có thể nói rằng,
thơ Mặc Giang là một trong những từ ngữ đẹp của Việt Nam. Nhắc đến
thơ Mặc Giang, chúng ta có cảm giác gần gũi, đẹp, thanh thoát và dễ
chịu. Chúng ta có thể từ trong nghệ thuật ngôn ngữ, di sản văn hóa
và non nước hữu t́nh để xem thơ ông, th́ sẽ thấy thật đặc biệt, cao
xa nhưng dung dị; thật b́nh thường dân dă, nhưng không tầm thường.
Thơ ông mang một tinh thần văn hóa khiêm dung: nông nghiệp lúa nước,
lấy đời sống người dân lao khổ làm trung tâm. Ông thường mô tả cái
cảnh dân quê lam lũ với ruộng quắn khô cằn, mái tranh nghèo, vườn
rau xanh ngát, khói lam chiều phủ kín quê mẹ; xem cả thành thị miền
quê đều là trung tâm. Mặc Giang c̣n đề cập đến những vấn đề như :
tôn giáo, sức lực nguyên khí tràn đầy, sắc màu cổ kính, một tinh
thần văn hóa vừa kế thừa, vừa sáng tạo. Vậy, thi ca Mặc Giang cuối
cùng vẫn liên quan đến những ǵ thuộc tâm linh, tính chất tâm linh
của người Việt Nam, đó chính là văn hóa tinh thần thâm sâu của thơ
Mặc Giang.
Vậy, thơ
là ǵ, là sinh mạng của con người. Nó “như mê bỗng giác, như người
nô lệ thoát kiếp, như bệnh được lành”. Cho thấy, thơ là tất cả những
giá trị băng vượt thời gian. Thơ chính là thức tỉnh ḷng người, là
cái ǵ đó rất gần gũi với thế giới tâm linh và bản thân cơ thể vật
lư của chúng ta, là từ trong khốn khổ đau thương, phù phiếm hoa lệ,
mà thức tỉnh và thấy được chân thân của chính ḿnh.
Có hay
không có chân thân, thiết nghĩ, trước nên thêm một bước luận chứng
điều này. Như nhân sanh có huyễn thân và hóa thân, cũng vậy, thơ
chính là tự ngă của ḷng thương có sức mạnh và tự bản thân thơ cũng
rất đáng yêu, v́ là cái đẹp trực giác. Ngày xưa có hai vị thiền sư,
hôm nọ thảo luận một vấn đề, vị thứ nhất nói nhiều đến vấn đề liên
quan trời đất vũ trụ. Khi đến lượt vị thứ hai, ông ta bỗng nhiên
thấy trong hồ có một đóa hoa sen đă nở, bèn nói : “khi thấy đóa hoa
này, rơ biết đời huyễn mộng”. Một ví dụ khác: có một Đại sư đêm nọ
ngủ trong một
khu rừng. Bấy giờ có một người hái trộm dưa bên rừng, thấy trăng
sáng hiện ra, ông ta lập tức ứng khẩu làm bài thơ:“trăng sáng mày
chớ ra, đợi ta hái xong dưa, ta đem dưa đi rồi, mạêc t́nh mày ẩn
hiện.”Vị Đại sư nghe rồi nghĩ rằng, ngay đứa trộm cũng biết làm thơ,
ta lẽ nào không biết sao? liền ứng khẩu một bài :“ác Ma! mày chớ
xuất hiện, đợi ta đoạn phiền năo, phiền năo đoạn xong rồi, mặc t́nh
mày ẩn hiện.”Sau khi đọc xong bài thơ, Đại sư lặng lẽ đi sâu vào
thiền định. Đây cũng là câu chuyện về sự tùy cơ dụng công, là trí
huệ, và kết qủa cuối cùng được đánh dấu thông qua trực giác của tâm.
Do đây, có thể nói, thơ là biểu hiện của trí tuệ,
tầm quan
trọng của thơ ca chính là tầm quan trọng của trí tuệ; c̣n đọc thơ là
tiếp xúc với kinh nghiệm cảm tính mới mẻ; đọc nhiều thơ, càng tiếp
xúc thư giản với những kinh nghiệm cảm tính càng nhiều hơn, cũng như
xem hoa, như nh́n trăng. Do vậy, đọc thơ đọc đến nhập tâm, đột nhiên
cảm thấy, dường như người xưa là người trong mộng của chúng ta,
chúng ta lại cũng là thân đời trước của người xưa. Đôi lúc thơ là
chắt lọc của những hồi tưởng rất ư vị, những nhận thức sâu sắc trong
trần thế, những cái nh́n nhạy bén từ góc cạnh thâm sâu trong cuộc
sống, nhưng cuối cùng thơ vẫn là những cảm tính luôn mới mẽ, vực dậy
từ hố sâu của nhận thức lư tính.
Thơ Mặc Giang là những ư thơ, hồn thơ tiêu biểu đại diện cho sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cảm tính và lư tính như vừa nêu
trên, nên khi viết về đất nước và con người Việt Nam bằng nhiều h́nh
ảnh và thơ phong khác nhau, thơ ông hoàn toàn đủ tư cách đại diện
cho sự tài hoa trong việc lột tả tinh thần, khí chất, cốt cách của
người Việt Nam, con người của sự hướng nội với đời sống tâm linh
phong phú, của sự kế thừa nền văn hiến mấy ngàn năm, của kiên trung
nghĩa khí, cũng là con người của sự hội tụ chọn lọc của những ǵ
thâm sâu, huyền bí, nhưng cũng thực tế nhất, hiện thực nhất.
V́ vậy,
nếu khi chúng ta xa quê, mà đọc mấy câu sau trong trong bài Chùa tôi
của Mặc Giang, chắc ai cũng ngậm ngùi, như đang đưa hồn ḿnh về với
cội nguồn Tiên Tổ :
Chùa
tôi nho nhỏ bên làng.
Bên
ḍng sông quyện, bên hàng thông xanh,
…Chùa
tôi cửa trước cửa sau,
Mỗi
lần Hội lớn kéo nhau ra vào,
Lời
kinh tiếng mơ thanh tao,
Tiếng
chuông ngân vọng rạt rào hồn quê
…Chùa
tôi c̣n có quê tôi,
Quê
tôi c̣n có chùa tôi muôn đời.
Trong quê đă có chùa, và trong chùa cũng vốn có quê. Chùa là là một
biểu tượng văn hóa không thể thiếu trong quần thể văn hóa vật chất,
tượng trưng văn hóa Việt Nam, là nơi kí thác tâm linh và nỗi niềm
thầm kín nhất của đa số người Việt Nam. Hễ nói đến văn hóa Việt Nam,
th́ h́nh ảnh ngôi chùa bỗng hiện lên trong tâm hồn sâu lắng của hầu
hết người dân quê Việt Nam. H́nh ảnh ngôi chùa ăn sâu vào tâm hồn
người Việt một cách tự nhiên, không gượng ép, không giáo điều, không
quyền thế. Bởi trong ḍng máu của mỗi người như đeo mang nó từ lúc
cất tiếng chào đời. Do đó, Chùa là một h́nh ảnh sinh động nhất trong
văn hóa tinh thần và văn hóa phi tinh thần của Việt Nam bởi tính
thân thiết, hài ḥa, thanh đạm, tự nhiên. Chính v́ h́nh ảnh mái Chùa
là một giá trị văn hóa quan trọng không thể thiếu trong mạch nguồn
văn hóa Việt Nam như thế, nên ngay từ xa xưa, dân tộc ta đă có câu
ca dao :
Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi ! bỏ Chùa
Người ra đi xa xứ xa quê đó đă sớm xác định được rằng, “mái chùa che
chở hồn dân tộc”, là
“nếp sống
muôn đời của Tổ tông”. Nên nếu phải ra đi, bỏ quên tất cả những kỉ
niệm đẹp đẽ thanh tao của quê hương, là đă đau ḷng lắm rồi, nhưng
cũng có thể nguôi dần theo năm tháng. Nhưng Chùa, th́ làm sao lại
quên, làm sao lại không đau ḷng xót ruột, không vấn vương quyến
luyến, bịn rịn lúc biệt ly, nên cảm động và than van năo nuột: “chao
ôi ! bỏ Chùa”. Cho thấy, đời sống tâm linh hay tinh thần của người
Việt Nam nói chung ngay từ xa xưa đă gắn liền với “đất vua, Chùa
làng, phong cảnh Bụt”, là đời sống tâm linh linh thiêng phong phú
nhất, mà h́nh như hiếm t́m thấy ở một quốc gia nào.
Đời sống
tâm linh gắn liền với ngôi Chùa, chính là đời sống đạo đức tinh thần
được thiết lập trên những đạo lư căn bản về hoàn thiện nhân cách,
trong sạch từ lời nói đến hành động. Vậy, nếp sống tâm linh hay xu
hướng hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam xuyên qua h́nh
ảnh ḥa vang thân thiện của ngôi Chùa, cho ta thấy thi sĩ Mặc Giang
đă xác định và cũng nâng cao tầm mức chiều sâu tâm hồn Việt Nam, tâm
hồn biết xúc cảm và rung động sâu xa trước bao nỗi khổ niềm đau của
cuộc đời. Đó mới chính là tâm hồn chính thống Việt Nam, là trái tim
Việt Nam, là suối nguồn đi về vô biên của t́nh thương và sự thức
tỉnh.
Cũng chính suối nguồn ấy như là“định hướng cho thuyền đời và nảy hoa
cho cuộc sống”, để con người Việt Nam mang nó đi khắp trên mọi nẻo
quê hương bằng nhiều h́nh thái không giống nhau. Và đó là mạch nước
đầu nguồn để dân tộc Việt Nam cảm thấy ḿnh như đang đi xuôi thuận
về miền quê hương tiền bối, nên trong hoàn cảnh chênh vênh nào đó
của thời cuộc, khi mà thời gian như vẽ ra vết hằn uất hận nào đó
trong chiều dài lịch sử tổ quốc, con người Việt Nam sẽ thốt lên :
Tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng
Tóc mẹ trắng xỏa chiều dài lịch sử
Bàn tay mẹ đưa con về t́nh tự,
Mái lều tranh ấp ủ những ngọt bùi
(Cuốn một bờ lau)
Con người
Việt Nam là con người của dân tộc thuần hậu, hiểu biết, biết lắng
nghe, lắng nghe được những đau thương đă qua hay hiện tại của đất
nước, hay những niềm đau thầm lặng tím ruột bầm gan của giang sơn,
nghe rơ từng tiếng khóc tê tỉ, nghe tận cùng nỗi niềm của dân tộc.
Khi đọc ḍng thơ trên, chúng ta sẽ cảm thấy, trong tiếng khóc quê
hương, trong nỗi buồn của mẹ, người con được đưa về trong t́nh cảm
ngọt bùi, chính là bối ảnh của ḿnh, ḷng bỗng nhiên cảm thấy cảm
động và ấm áp khó tả. Cho thấy, v́ thơ Mặc Giang đă biểu đạt nhân
tính tương thông kim cổ, là dùng kinh nghiệm cảm tính vĩnh viễn mới
mẻ để biểu đạt. V́ vậy nên nói rằng, thơ Mặc Giang, một mặt là nhân
tính vĩnh hằng, c̣n mặt kia là sự mới mẻ, là cảm tính vĩnh viễn. Mà
nhân tính cổ kim tương thông này chính là niềm mơ ước trong nội tâm
thầm kín của văn hóa Việt Nam. Người viết nghĩ, văn hóa Việt Nam của
chúng ta, nằm mộng cũng mộng đến chỗ đẹp nhất, sâu sắc nhất, chính
là tinh thần nhân tính tương thông cổ kim. Vĩnh viễn của ruộng đồng,
của mái nhà tranh, sau lưng nó là thế giới nhân tính vĩnh viễn.
Chính cái
nhân tính vĩnh viễn này đă tạo cho con người Việt Nam một hướng đi
theo chiều tích cực khác, càng chứng tỏ đất nước Việt Nam là đất
nước của những con người làm nên lịch sử.
Và làm sao mà con người Việt Nam đă thực hiện được điều đó, chúng ta
thử xem Mặc Giang viết : như “Noi chí khí là con đường phía trước.
Chớ không trùm mền, nằm đợi phía sau, Băng tang hải đạp biển dâu,
Sống hiên ngang, đứng ngẩng đầu”, như “Nhớ Trưng Vương cỡi voi dẹp
giặc đất Mê Linh. Nhớ Triệu Trinh ra khơi vỗ sóng cỡi cá ḱnh. Nhớ
Đống Đa, tuyệt thế Quang Trung” hay như“tôi mạnh bước ra biên thùy
dậy sóng”, rồi “thời tao loạn, nhuộm ḿnh trong khói lửa”. Đất nước
Việt nam là đất nước sinh ra những con người bất khuất như thế đó.
Con người Việt Nam là anh hùng như thế đó, và sẽ hiên ngang như
vậy đó. Đây cũng là khí tiết tự quyết của Trần Quốc Tuấn, dơng dạc
dứt khoát của Trần B́nh Trọng, quyết đoán của Quang Trung Nguyễn Huệ….
Thời đại nào, Việt Nam cũng sẽ có những con người như thế ấy, sẽ
tiếp tục trên con đường đó, nếu cần th́ sẵn sàng làm người lính tiên
phong, xông pha ngẩng đầu đối diện sống chết như cha ông đă băng
ḿnh trên sa trường, mà máu hồng măi như tắm nhuộm cho non sông thêm
gấm lệ kiêu hùng.
Đề cập những tên tuổi vàng son của những anh hùng bất khuất sáng
ngời lịch sử, thi nhân Mặc Giang như cảm thấy ấm ḷng, ng̣i bút như
thần tiên chắp cánh, bởi đă thấy trong con người Việt Nam của mấy
ngàn năm văn hiến là sức mạnh Phù Đổng vươn mây, là sự tuôn chảy ồ
ạt của sông Hồng, là chiều cao của ngọn Ba V́, và luôn là trong
chiều hướng hội tụ đoàn kết nhân tâm của Hội nghị Diên Hồng. Đó cũng
là mở đường cho sức mạnh của thời đại Đinh, Lư, Trần, Lê, là thời
đại đại diện cho cái nôi tinh thần làm nên chiến thắng vẻ vang sống
động sông núi hồn thiêng, biến Việt Nam trở thành tên gọi đất nước
của những anh hùng làm nên lịch sử, đất nuớc của sông Hồng xuôi măi
về biển Đông, bồi đắp phù sa cho ruộng đồng c̣ bay thẳng cánh, là
quê hương của muôn đời đi về trong suối mát sực nức hương hoa, để
Việt Nam c̣n măi là Việt Nam vùng vẫy dọc ngang, đội trời đạp đất vẻ
vang giống ṇi.
Ngoài ra, đề cập đến tinh anh của tinh thần, mặn mà của nhân cách
khí chất con người Việt Nam, Người thơ Mặc Giang c̣n thường thường
nhắc đến biển rộng sông dài, núi cao b́nh nguyên, cảnh quê nghèo dân
dă, đồng ruộng khô cằn. Thơ ông có mấy câu như : “biển dâu xanh
ngắt một màu”, như “gom ngàn vạn bóng phù vân, Vén mây trùng điệp
tỏa vầng thiều quang”, như “tỏ soi như ánh trăng rằm, ngàn sao
lấp lành ngàn năm vẫn c̣n”, như “đứng trên bèo bọt ba đào. Xô tan
ḍng nước vẫy chào trùng khơi” và “ Trường Sơn lan tỏa câu thề, Thái
B́nh loáng bạc, sóng kề nước reo”, đều là những câu thơ nói lên sức
mạnh sung măn ào ạt, sức sống vươn lên cuồn cuộn, hùng hậu, là
những đức hạnh, những đức tính thanh cao trong sạch, là tinh thần
tiết khí “thà làm cây cỏ xanh ngát bên đường, hơn hoa mỹ thêu thùa
bên bờ lau gió bụi”. Sông Thái B́nh, núi cao vách lớn, mặt trời,
mặt trăng trong thơ Mặc Giang đều chính là cái khí quán thông
sanh mạng vũ trụ, là những cái đẹp mạnh mẽ nhưng lại mềm mại dẻo dai
bền bĩ kinh trời động đất, hào sảng, t́nh tiết và hùng tráng. Cũng
như câu thơ : “trắng vàng
rơi rụng
bao màu đă. Vàng bạt Trường Sơn trắng biển Đông”, là sức sống mạnh
mẽ, hùng hồn,
khí thế. Đây chính là đại biểu thẩm mỹ ư thức của thơ Mặc Giang: cái
đẹp của trời đất, hùng vĩ cảnh quan của tự nhiên -----đêm trăng,
mây, sóng, ánh thiều quang… một khi cùng xuất hiện trong nhân gian,
khiến nhân gian trở thành cái đẹp tồn hằng trong các cái đẹp, chúng
là đại tự nhiên của sinh mạng hóa, là khuynh hướng mở ra một chân
trời hứa hẹn lên màu.
Tổng quan
ư nghĩa của những câu thơ trên, cho thấy thi nhân Mặc Giang đă khẳng
định, cốt cách ṇi giống Rồng Tiên là cốt cách của những người sống
trên thế gian này mà biết thiện đăi
chính ḿnh, nếu không th́ phụ đời này, luống uổng đời này. Thiện đăi
chính ḿnh là thiện đăi quê hương giống ṇi, thiện đăi quê hương
giống ṇi là phụng hiến tâm huyết cho non sông, cho hương hồn liệt
vị tiền bối đă không tiếc máu xương của ḿnh, đă nằm xuống cho Việt
Nam trời quê thêm xanh ngát ruộng đồng, cho Việt Nam biển Đông thêm
ấm gội nắng hồng.
Có một số thơ của Mặc Giang, đọc lên nghe rất b́nh
thường an định, trầm tĩnh, nhưng cũng mang cái đẹp nguyên khí quán
thông vũ trụ, có trời có đất, trong cái nhiêu khê chật vật ch́m nổi,
là cái đẹp thường nhiên. Như “Cây đa c̣n đứng đầu đ́nh, cành mai
trước ngơ nghiêng ḿnh trổ bông”, như “thác róc rách trên đèo heo
hốc núi, nước khơi nguồn ch́m nổi giữa ḍng khe” đều là khí mạch
tràn trề không gián đoạn của con người và vũ trụ. Như “đi về thăm
hỏi mùa đông, giá băng đâu mất bếp hồng ấm êm. Mùa thu c̣n ngủ bên
thềm, rụng rơi lá úa đâm chồi lá non”, “bếp hồng ấm êm” “đâm chồi lá
non”, chẳng phải là cái đẹp trôi chảy tiềm tàng vô biên tế, sinh
đôïng không dừng nghỉ của không gian, thời gian, của đất trời, của
con người đó sao. Những câu thơ này đều là tiết tấu sinh mạng của
thi nhân, tiết tấu sinh mạng cảm thông cả vũ trụ.
Rồi như khi viết về các tỉnh của Việt Nam dấu yêu, Người thơ Mặc
Giang có mấy câu như : “đi ra tận cửa Hải Pḥng, trùng dương sóng
vỗ, Hạ Long tuyệt vời”, “Cam Ranh mây nước xanh lam, Đà lạt mơ mộng
suối vàng Cam Ly”, “Sài G̣n nói thiệt nào hơn, viễn Đông ḥn ngọc dễ
sờn mấy ai”. Mặc Giang cho ta thấy, cái đẹp nổi bật của tỉnh vùng,
cũng là cái đẹp tinh khiết, cái đẹp như đă được tôi luyện giồi
mài trong truyền thống đậm màu tâm linh của trong tâm hồn con người
xứ ấy nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Chưa dừng lại ở đây,
thi nhân c̣n đưa chúng ta đi thưởng thức cái đẹp thanh tao như chưa
từng vướng lụy của đất trời :“đi vào sợi nắng long lanh, trời xanh
loáng bạc rơi nhành thùy dương”. Văn tự ở đây rất dễ hiểu, đơn giản,
rất b́nh thường dung dị, nhưng đọc lên, cho ta có cảm giác thật dễ
chịu, thật thông thấu. Mặc Giang c̣n có một câu thơ nghe rất hay
trong h́nh tượng tư duy, đẹp trong cái đẹp vần vũ hài ḥa của đất
trời : “suối vắng ven đồi reo róc rách. Đêm thanh gió lộng nhạc
thần tiên”, là cái đẹp đặc biệt, mặn mà, đầy nội lực, cái đẹp không
biến hoại đổi thay theo ngoại cảnh. Đọc rồi, cho người ta cảm
thấy cuộc sống rất đẹp, rất mới mẻ hoạt bát, hoạt lực, có sức mạnh
tiềm tàng.
Ngoài ra, c̣n có một số thơ vừa đọc, ta thấy có chút thương cảm,
khiến thương hoa tiếc ngọc, nhưng thực tế nội lực bên trong rất
mạnh, rất sung măn. Như “trăng lặn ḍng sông đêm mấy canh”, “tầng
không én liệng buồn bay cuối trời”. Vậy th́ đó là cái cảnh buồn thâu
năo ruột, buồn đến ngẩn ngơ đờ đẫn, không thiết ǵ cảnh sống
đang vươn lên đầy sinh lực ? hoàn toàn không phải, mà thực tế sau
cảnh này là “lúa đơm bông ngậm sữa ướp tinh anh”, là “như mùi mạ
con, mơn mởn xanh non, như bông lúa thơm chờ mùa lúa chín”. Đây
đều là những sức sống vươn lên trong sức mạnh của cái đẹp mà sự
hoàn thiện tṛn đầy đang chờ mong. Ngoài ra, ông cũng có những câu
đọc lên nghe một chút âm hưởng giọng điệu u buồn như “tiếng dế kêu
nghe ủ dột mùi sương”, “núi vẫn ngủ bên rừng già giá lạnh, rừng vẫn
yên bên núi thẳm thâm u”, nhưng thực chất chuyển tải bên trong
đó chính là sức mạnh, là cái cảnh huy hoàng ấm áp xán lạn của cảnh
vật ḥa trong điệu sống tràn đầy sinh khí, hoạt lực vô cùng, mạnh mẽ
như vũ băo, mạnh như mạ xanh non chờ lúa mới . Trong tiếng kêu ủ dột
của tiếng dế, trong giá lạnh của rừng già và âm u của núi, th́ lúa
mọc lúa tàn, hoa nở hoa rụng, vốn có bao nhiêu vạn vật măi măi sinh
trưởng tự nhiên mạnh mẽ như hít thở không khí, không ǵ có thể ngăn
cản nổi. Cũng thế, bao nhiêu âm thanh h́nh sắc đều sẽ qua đi, nhưng
không phải hoại mất, mà là đang chuyển từ dạng thức này sang dạng
thức khác mới mẻ hơn, hoàn chỉnh hơn trong quy luật vận động sinh
tồn và chuyển hóa. Tâm tính con người Việt Nam, đất nước của những
người con máu đỏ da vàng cũng vậy, tuy trong những tiến tŕnh khác
nhau trong qúa độ chuyển hướng hoàn thiện hơn trong cuộc sống, đă
không ngừng đấu tranh sinh tồn để có một cuộc sống vật chất hoàn
thiện và tâm linh trong sáng hơn.
Chỉ có mấy câu thơ, nhưng lại rất thiết thực ích lợi đối với nhân
sinh, với đạo lư sinh mạng, có khả năng khai mở một thế giới vô hạn
của sự tiến bộ, của tri thức, của t́nh thương và sự hiểu biết. Thơ
Mặc Giang đúng là một tâm linh bất tử. Thơ ông lẽ nào không phải
biểu đạt mộng ước của con người trong văn hóa tinh thần Việt Nam đó
sao. Thơ Mặc Giang là tinh thần của sáng sớm, là sức mạnh tuổi
trẻ, không phải là trà chiều. Trà chiều là hồi vị, phản tỉnh trầm
tư nếu không ngừng suy nghĩ vấn đề. Mà sáng sớm là không đề cập vấn
đề, không phân tích; sáng sớm leo lên núi cao, là để dành t́nh cảm
cho núi, ngắm biển thời ư tràn ra biển, là trong lành mát mẻ, là
tinh thần phấn khích phóng khoáng.
Chính tất cả sức sống dạt dào, hướng sống mạnh mẽ, dứt khoát trên,
đă tạo nên cho con người Việt Nam một tâm hồn rộng mở, sẵn sàng chào
đón chăm nhận t́nh đồng loại. Từ sự ít cố chấp, không hẹp ḥi ấy, đă
h́nh thành trong ḷng sự cởi mở hào phóng, do đó, tâm hồn họ cũng ư
vị sâu sắc, rất hay, rất đẹp. Tại ư này, Mặc Giang có mấy câu như :
“tay ôm giấc điệp mân
mê, vầng
trăng nghiêng bóng nằm kê gối đầu”, như “bên hồ bóng nguyệt lung
lay, nương làn sóng biếc đưa tay lên ngàn”, “nằm đáy biển gối đầu
non, phơi ḿnh dưới nắng tựa hồn đỉnh
cao.” Tất cả đều gần như cái khí chất thong dong diễu cợt cùng chiếc
bóng thời gian, như là ư thức
về
giá trị cuối cùng của nhân sinh là ǵ, đâu là giá trị chân thật giữa
ḍng đời phù phiếm điên loạn. Đọc mấy câu này, người viết bỗng nhớ
đến phong thái của những bậc Hiền Thánh, các vị do sống không kẹt
vào ư niệm không gian thời gian, nên thong dong trong giấc ngủ, rồi
ngày mai chỉ tựa cửa nh́n trời, và cũng là phong thái :“bẳng quên
thân thể chẳng hề vương, lặng lẽ ngồi lâu lạnh cả giường, năm đến
trông non không sẵn lịch, nh́n xem cúc nở tiết trùng dương …. Ḷ
hương tàn lụi, mặt trời lên”, là phong cách sống rất Việt Nam, rất
thâm thiết với nguồn cội Tiên Rồng. Tuy nhiên, Mặc Giang không phải
khẳng định sự thống nhất về phong thái sống giữa hai mẫu người,
nhưng ít nhất, thi nhân đă tự khẳng định rằng, trong ngàn vạn người
sống trong quay lộn loay hoay như con rối, vẫn luôn xuất hiện những
con người siêu thoát ấy, họ tồn tại như một tài liệu sống, và bất ḱ
thời đại nào cũng có. Đó chính là sự hội tụ tinh hoa của tâm hồn con
người Việt Nam, đỉnh cao của nội lực tinh thần sung măn, là phong
thái của anh hùng Trần Nhân Tông, một hướng sống đại diện cho tâm
hồn trí thức Việt Nam triều Trần: “ở đời vui đạo hăy tùy duyên, đói
đến th́ ăn, mệt ngủ liền, trong nhà có báu thôi t́m kiếm, thấy cảnh
vô tâm hỏi chi thiền.”
Tất cả
những tinh thần khí chất trên, đă tạo nên một con người Việt Nam
biết vun vén xây đắp t́nh người như keo sơn, như biển với bờ. Mặc
Giang có một số câu : như “Thái B́nh ngóng đợi sơn khê, Trường
Sơn lan tỏa, vỗ về biển Đông”, như “núi cao gối tựa non sông, sông
sâu in bóng, non bồng núi cao” và “ngày mai biển trở về sông, non
quay về núi, cội trông về nguồn” nghe như một lời chung thủy sắt
son, hay như một sự trở về đoàn viên. Đây phải chăng nói lên
t́nh yêu nước của người lính chiến và mong ngày hoan ca khải hoàn
trở về, là t́nh bạn cảm động thiêng liêng, cùng d́u dắt nhau đi trên
cuộc đời, là chung thủy của t́nh thầy tṛ, t́nh Sư đệ, t́nh quân
nhân, t́nh đồng môn đồng đội, t́nh chung thủy của vợ chồng, và t́nh
gắn bó với quê hương ṇi giống.
T́nh
chung thủy, t́nh keo sơn gắn bó trong mọi quan hệ trong cái khí chất
trung trinh tiết liệt ấy cố nhiên là niềm tin yêu, hy vọng ở ngày
mai, quyết không thể để cho trái sầu chín rụng, cho sự thất vọng lên
ngôi. Biểu đạt ư này, người thơ Mặc Giang có mấy câu sau: “ngày tàn
gọi bóng chiều rơi, tà dương chưa ngủ trên đồi mênh mông”, hay
như “bóng tối thâm u lộ chiếu trăng vàng, màn đêm khép lại cho vầng
trăng ló dạng”, hay “đêm về gơ cửa canh thâu, màn đêm e ấp gối đầu
b́nh minh”. Sự đợi chờ hy vọng ở ngày mai, cũng là một trong những
cái khí, cái chất quan trọng quư báu của người Việt Nam. Nó là
sức mạnh un đúc nên sự chiến thắng, tạo nên cho con người Việt nam
cái nhuệ khí mà không ǵ có thể bào ṃn, để cho anh cho em quyết chí
hạ thủ công phu đèn sách, chờ ngày gặt hái thành quả, thành bậc anh
nhi xây đắp cống hiến cho đời; để cho người lính chiến hùng dũng
xông pha ra xa trường; cho người chinh phụ thêm sức sống; cho đất
nước bốn mùa măi xinh tươi trong niềm vui đầy hứa hẹn như màn đêm e
ấp gối đầu b́nh minh, như sự đợi chờ hy vọng của cô Tấm trong chuyện
cổ tích.
Sở dĩ
tinh thần khí chất của dân tộc Việt Nam được thi nhân Mặc Giang nhận
định đánh giá một cách khách quan, thông qua những diễn biến của quá
tŕnh lịch sử cũng như phong thái tâm hồn và lối sống, là v́ thi
nhân đă tiếp thu và xây dựng cho ḿnh sự hiểu biết rằng, do con
người Việt Nam trong thầm kín nội tâm, đă xác định sự quan trọng của
tổ hợp thân thể tâm lí và vật lí này. Hay nói cụ thể hơn, họ hiểu
“con người là cây sậy có tư tưởng”, hay như Đức Lăo Tử nói “người là
linh hồn của vạn vật”, c̣n Phật giáo nói “con người là tối thượng”
và“hăy tôn trọng tánh linh của ḿnh”. Điều này muốn nói rằng, sinh
mạng con người là cái đẹp nhất, quư báu nhất trong khoảng trời đất
này mênh mông này. Đây cũng chính là một nhận định quan trọng trong
văn hóa Việt Nam thời cổ đại. Do vậy, ông cha ta ngày xưa đă dạy
phương cách để hoàn thiện và phát triển nhân tính là: “ngọc nát c̣n
hơn giữ ngói lành”, hay “áo rách có cách người thương”. Và cơ sở để
thiết lập sức mạnh xây dựng nhân tính, đó là sự xác định rơ rằng:
“dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho môït người ”.
Nhờ đó, con người mới quư tiếc thân mạng này. Nói tóm gọn, “con
người là tối thượng” có mấy nghĩa là: con người là sáng tạo thiện ư
của vũ trụ, sanh mạng là cao quư tốt đẹp, không thể hạ thấp và ép
chế nó, ư nghĩa con người sống trên đời chính là nét đẹp thiện đăi
sinh mạng, nỗ lực phát huy khả năng của ḿnh để không phụ đời này,
không luống uổng đời này. Bất luậïn khó khăn đến cỡ nào, cũng không
buông lơi. Quan trọng như chiếc bè dùng để sang sông, cũng vậy, duy
nhất con người mới là nhịp cầu giữa Thánh hiền và phàm phu trầm
luân.
Ít nhiều,
con người Việt Nam trong cái nh́n của thi nhân Mặc Giang, là con
người của hội tụ đủ ư thức và kiến giải như trên. Do vậy, tinh thần
nhân tính của văn hóa Việt Nam được biểu hiện trong thơ Mặc Giang,
có thể có kết luận đó là: tinh thần tận khí (mạnh mẽ xốc vác hết
ḿnh), tận tài (dốc hết khả năng tài hoa của ḿnh), tận tâm (dốc hết
ḷng ḿnh để sống phục vụ trọn vẹn cho quốc gia), tận t́nh (đem
chân tâm thiện ư, chính trực mà đăi người ). Nhân sanh cần phải như
thế, vĩnh viễn như thế không thôi dứt.
Những câu
thơ tứ thơ có liên quan biểu đạt tinh thần, khí chất con người Việt
Nam của Mặc Giang, có thể là những sự nh́n nhận, phát biểu ư kiến
của cá nhân đối với tiền bối trong nhiều giai đoạn quá khứ; có thể
là vừa nhận định và cũng vừa khuyến giải cho thế hệ hiện tại và cho
cả mai sau. Thế nhưng, thi nhân cũng như chỉ làm một việc đơn giản,
là:
Tôi vẽ một
người Việt Nam, máu đỏ da vàng
Tôi vẽ một
Nước Việt Nam, gấm vóc ba miền
Tôi vẽ một
Nước Việt Nam, sông núi hồn thiêng
Trao từng
thế hệ ngàn sau ǵn giữ
Lội ngược
thời gian theo ḍng lịch sử
Của giống
Rồng Tiên t́nh tự xưa nay
Và truyền
lưu đến tận ngày mai
Cho rạng rỡ
oai linh nước Việt.
(ta c̣n Việt
Nam sông núi hồn thiêng)
Đây như
là một bài hùng ca cô đọng sau cùng, mà mỗi câu đă bao hàm xác định,
phân tích, giải thích, chứng minh và ngợi ca về con người, về đất
nước của mấy ngàn năm văn vật.
Tinh thần sinh mạng tích cực, tiến thủ mạnh mẽ, hướng thượng của thơ
mặc Giang không phải chỉ là chất liệu khai phóng thời đại, mà c̣n là
tinh thần rất Việt Nam, rất dân tộc, rất tự hào, rất nghĩa khí, nó
rất cần thiết để xây dựng sức mạnh cả tâm linh cho một đơn vị, một
tập thể, một cộng đồng, và xa hơn nữa là cho đến một quốc gia.
Ngày nay đang sống trong trào lưu vật chất, trong đắm ch́m của cám
dỗ cảm giác, th́ những khủng hoảng đạo đức nhân tính của con người
nói chung luôn là niềm đau nhức thấu tâm can của những kẻ sĩ, của
đấng quân tử trượng phu nói chung và người thơ Mặc Giang nói riêng.
Cho nên việc làm, ngôn từ và tứ thơ của họ không những chỉ là sự xác
quyết nhận định đầy tự hào kiêu hảnh, đồng thời cũng chính là những
nhiệt huyết với tinh thần dân tộc, tinh thần của tính tự quyết tự
thiện với những ư thức cao độ. Do đó có thể nói rằng, giờ là bối
cảnh phù hợp nhất, là hoàn cảnh cấp thiết nhất để đọc thơ Mặc Giang,
nhằm cải tạo nhân tâm, vun bồi đạo nghĩa, củng cố t́nh người. Nhờ
chúng ta là những người mang trong ḿnh ḍng máu tiên tổ cha ông với
cốt cách và nghĩa khí kiên trinh, nên cho dù hoàn cảnh hay thời đại
nào, các bậc trượng phu quân tử cũng hy vọng rằng, người Việt Nam
chúng ta sẽ măi là con người của t́nh thương, lư trí, nghị lực,
không khuất phục biến thái dưới bất kỳ danh nghĩa nào, để lịch sử
Việt Nam măi chói sáng, để tinh thần khí chất, tiết liệt của người
Việt Nam măi măi là những giá trị xuyên vượt thời gian.
Trở về
|